Thứ Bảy, 16 tháng 8, 2008

Viêm Gan ... đại họa cho người Việt


Mong rằng các bạn bớt chút thời gian để tìm hiểu về bịnh này ...quá nguy hiểm ...
Viêm gan là gì ?

Viêm gan là tình trạng viêm tại gan. Nhiều bệnh lý có thể gây viêm gan, như nhiễm siêu vi, vi trùng, thuốc, rượu, hóa chất và bệnh tự miễn. Khi các chuyên gia nói về viêm gan, họ thiên về viêm gan siêu vi. Những bệnh viêm gan siêu vi đặc biệt này được gọi là A,B,C,D,E,F (chưa xác nhận) và G. Khi kiến thức về virus mới ngày càng mở rộng thì bảng alphabet sẽ trở nên dài hơn.Trong khi một vài virus như mononucleosis và cytomegalovirus, cũng có thể gây viêm gan nhưng chúng không tấn công gan ngay từ đầu. Bài viết này tập trung về virus tác động đến gan ngay từ đầu, đặc biệt là viêm gan siêu vi A, B và C.

Gan nằm ở vùng trên bên phải của bụng, gần như vùng sau dưới khung sườn. Gan người lớn bình thường nặng khoảng 1,5 Kg. Gan thực hiện những chức năng sinh tồn của cơ thể :

Gan giúp làm sạch máu bằng cách biến đổi chất hoá học độc hại thành chất không độc. Nguồn gốc các chất hoá học này có thể từ bên ngoài như thuốc và rượu, hoặc từ bên trong như amoniac hay bilirubin. Ðiển hình là các chất này sẽ được chyển hoá và được đào thải ra khỏi cơ thể qua nước tiểu hay phân.

Gan sản xuất ra những thành phần quan trọng, đặc biệt là protein cần thiết cho cơ thể. Gan sản xuất albumin, protein xây dựng cơ thể hay những protein giúp đông máu.

Gan dự trữ đường, chất béo, vitamin và cung cấp cho cơ thể khi cần.

Gan chuyển những khối nhỏ thành khối lớn hơn, chứa nhiều thành phần phức tạp hơn cần thiết cho cơ thể.

Một trong những loại chức năng này là tổng hợp và chuyển hoá Cholesterol. Khi gan bị viêm, gan không còn thực hiện các chức năng này hiệu quả, và gây ra nhiều triệu chứng viêm gan.

Các loại viêm gan siêu vi là gì ?

Viêm gan A
Ngày xưa, viêm gan A được quy cho là viêm gan vi trùng. Nhiễm virus viêm gan A có thể lây qua thức ăn, nước uống và phân, đặc biệt những nơi kém vệ sinh làm cho nước và thực phẩm bị lây nhiễm bởi chất thải từ cống (đường lây truyền phân -miệng). Nó có thể lây cho người nhà và bạn bè bằng đường miệng (hôn thân mật) hay phân (rửa tay dơ). Nó cũng thường lây trong các nhà hàng hay nơi giữ trẻ nếu rửa tay và chú trọng vệ sinh kém. Hộ gia đình có tiếp xúc người bị nhiễm có nguy cơ viêm gan A. Viêm gan A là bệnh cấp tính không bao giờ phát triển thành mạn tính.

Viêm gan B
Viêm gan B ngày xưa được quy cho "viêm gan huyết thanh" vì người ta nghĩ rằng con đường duy nhất mà virus viêm gan B có thể lây là máu và huyết thanh. Bây giờ người ta biết nó có thể lây qua những tiếp xúc thân mật, đặc biệt quan hệ tình dục, máu và huyết thanh qua kim, truyền máu, lọc máu và sinh đẻ. Cũng có thể lây qua vết xăm mình, xỏ lỗ tai hay dao cạo, và dùng chung bàn chải đánh răng. Viêm gan siêu vi B khá phổ biến, nhiều hơn cả nhiễm HIV. Khoảng 6-10% những người này tiến triển thành viêm gan B mạn (nhiễm viêm gan B kéo dài trên 6 tháng). Bệnh nhân bị viêm mạn có thể lây cho người khác. Người ta đánh giá rằng có 200-300 triệu dân trên thế giới bị viêm gan B mạn.

Viêm gan C
Viêm gan C đầu tiên được xem như "viêm gan không A không B" vì virus gây bệnh chưa được nhận diện. Tuy nhiên, nó được biết như viêm gan không do A, không do B. Thông thường virus viêm gan C có thể lây qua truyền máu, lọc máu và tiêm chích. Xấp xỉ 90% viêm gan liên quan truyền máu do virus viêm gan C. Sự lây truyền virus qua quan hệ tình dục cũng được ghi nhận nhưng hiếm hơn. Có khoảng 150,000 trường hợp mới viêm gan C mỗi năm, 50-70% bệnh nhân này tiến triển thành viêm gan C mạn. Bệnh nhân viêm gan mạn có thể lây nhiễm cho người khác.

Viêm gan D, E, F và G
Cũng có viêm gan siêu vi D,E,F (chưa nhận diện) và G. Ðiểm gợi ý nhất của những bệnh này hiện tại là viêm gan D (yếu tố delta ) chỉ gây bệnh khi có sự hiện diện của virus viêm gan B và E.

Ai có nguy cơ bị viêm gan?

Người có nguy cơ viêm gan là các nhân viên y tế, người có nhiều người tình ( quan hệ tình dục với nhiều người như gái mại dâm), người dùng thuốc tiêm mạch, và bệnh nhân bị hemophilie (vì những người này cần phải truyền máu thường xuyên). Viêm gan phổ biến gấp 10 lần ở những người kinh tế thấp và ít học. Khoảng 1/3 trường hợp viêm gan là vô danh và không rõ nguồn gốc. Ðiều này có nghĩa là bạn không thuộc nhóm nguy cơ cao bị nhiễm viêm gan siêu vi.

Triệu chứng của viêm gan là gì ?

Thời gian mà mà một người nào đó bị lây từ người viêm gan siêu vi cho đến khi biểu hiện bệnh lý được gọi là thời kỳ ủ bệnh. Thời kỳ ủ bệnh khác nhau tùy thuộc vào loại virus. Viêm gan A có thời kỳ ủ bệnh khoảng 15-45 ngày, trong khi viêm gan B là 45-160 ngày và viêm gan C là 2 tuần đến 6 tháng. Nhiều bệnh nhân nhiễm 3 virus viêm gan này có ít hoặc không có triệu chứng.

Thật vậy, hầu hết những người bị viêm gan B và C đều không có triêu chứng. Ðối với những người có triệu chứng, thường điển hình giống cảm cúm như chán ăn, nôn, buồn nôn, mệt mỏi, sốt, đau bụng. Những triệu chứng hiếm gặp hơn như tiểu sậm màu, phân nhạt màu, sốt, vàng da (màu vàng xuất hiện trên da và phần trắng của mắt). Triệu chứng chán ăn, mệt mỏi, ói mửa có thể kéo dài vài tuần cho đến vài tháng. Trong khi ở một số bệnh nhân viêm gan siêu vi tự hồi phục mà không cần điều trị gì đặc biệt, còn ở một số bệnh nhân viêm gan siêu vi B, C khác lại phát triển thành viêm gan mãn tính (viêm gan kéo dài trên 6 tháng). Bệnh nhân viêm gan A không tiến triển thành mạn tính.

Những người viêm gan B và C mãn tính có thể bị nhiễm nhiều năm và tăng nguy cơ tiến triển thành xơ gan và ung thư gan. Khoảng 50% bệnh nhân viêm gan B mãn chết vì xơ gan hay ung thư gan. Suy gan do viêm gan mãn C thường là lý do để chỉ định ghép gan ở một số nước phát triển trên thế giới.

Làm thế nào để chẩn đoán viêm gan siêu vi?

Viêm gan thường được chẩn đoán đầu tiên trong giai đoạn hoạt động của bệnh, dựa trên triệu chứng và thăm khám bệnh nhân. Nó được khẳng định bằng xét nghiệm máu, chức năng gan, bao gồm bilirubin (sắc tố gây vàng da) và men gan (phóng thích vào máu từ những tế bào gan bị tổn thương ). Khi xét nghiệm chức năng gan bất thường gợi ý chẩn đoán viêm gan thì những xét nghiệm máu đặc biệt sẽ được dùng để khẳng định viêm gan siêu vi loại nào. Hãy đọc kỹ bài viết các men gan trong máu.

Bệnh nhân viêm gan B và C mạn tính có ít hoặc không có triệu chứng. Ở những bệnh nhân này, viêm gan mạn tính có thể chỉ được phát hiện ra khi làm test tầm soát ngẫu nhiên vì lý do khác hơn là nghi ngờ viêm gan. Sự tăng men gan bất thường hằng định sẽ báo động cho bác sĩ tiến hành những xét nghiệm đặc hiệu hơn cho chẩn đoán viêm gan B và C.

Tắc nghẽn ống dẫn mật, từ bệnh túi mật hay ung thư đôi khi có thể giống viêm gan siêu vi cấp. Siêu âm có thể dùng để loại trừ khả năng tắc mật hay ung thư. Ðể biết thêm thông tin, xin đọc bài siêu âm.

Ðiều trị viêm gan như thế nào?

Ở bệnh nhân có triệu chứng viêm gan cấp, điều trị ban đầu bao gồm làm giảm triệu chứng nôn ói, rối loạn tổng trạng. Thật thận trọng đối với thuốc có hại ở bệnh nhân mà chức năng gan bất thường. Chỉ những thuốc thật cần thiết mới dùng. Bệnh nhân phải kiêng tất cả các loại rượu. Thuốc giảm đau và an thần nên tránh. Ðôi khi thật cần thiết thì cung cấp dịch truyền ngừa mất nước do ói mữa. Bệnh nhân buồn nôn và hoặc ói mữa nhiều có thể cần phải nhập viện. Một khi viêm gan đã được nhận diện, điều trị viêm gan mạn tính B (với interferon và lamivudine) và C (với interferon và ribavivin kết hợp) có thể bắt đầu (Xem thêm bài viết về viêm gan B và viêm gan C). Có những nghiên cứu tích cực trong việc phát triển điều trị hiệu quả viêm gan siêu vi.

Ngày nay vaccine A có thể ngừa được viêm gan A. Trẻ em có thể tiêm ngừa 3 mũi, lần 1 và trong tháng đầu tiêm thêm 1 mũi và lần tăng cường vào 6-12 tháng sau. Người lớn tiêm ngừa 2 mũi, khoảng 6- 12 tháng một lần. Globulin miễn dịch có thể dùng ở bệnh nhân có nguy cơ bị nhiễm viêm gan A trong khoảng thời gian ngắn. Globulin miễn dịch có thể được dùng trước khi tiếp xúc với những yếu tố nguy cơ (khách du lịch ) hoặc những người đã tiếp xúc thân mật với người viêm gan A hoạt động.

Vaccine ngừa viêm gan siêu vi B đã được sử dụng rộng rãi trên thế giới nhằm ngăn ngừa viêm gan B. Ngày nay trong chương trình phòng chống viêm gan siêu vi B của Việt Nam đã thực hiện tiêm ngừa cho tất cả trẻ sơ sinh như là một loại chủng ngừa thường quy trong chương trình tiêm chủng cơ bản. Nếu đứa trẻ được sinh ra có mẹ bị viêm gan B, trẻ sẽ được tiêm HBIG. HBIG là kháng thể miễn dịch viêm gan B, tương tự như ISG tiêm cho người tiếp xúc với viêm gan A, tuy nhiên HBIG lại đặc hiệu cho virus viêm gan B. Cũng được khuyến cáo mạnh mẽ rằng, trẻ lớn và người lớn trong nhóm nguy cơ cao nên tiêm ngừa chủ động ngừa viêm gan B. Nếu một cá thể tình cờ bị nhiễm viêm gan B ở bất kỳ lứa tuổi nào, HBIG có thể được tiêm cùng lúc khi viêm gan B bắt đâu.

Hiện nay không có vaccine ngừa viêm gan C. Hình thức ngăn ngừa tốt nhất là kiểm soát tốt máu dùng để truyền. Cũng vậy, bạn nên để dành máu của mình trong trường hợp bạn cần phải phẫu thuật mà có truyền máu, nhằm có một nguồn máu an toàn tuyệt đối để khi cần thiết có thể truyền trong và sau khi mỗ. Ðể dành máu của chính bạn cũng là ngăn ngừa được khả năng nhiễm HIV, và các bệnh lây truyền khác do truyền máu. Chúng tôi sẽ trình bày cách để dành máu của chính mình ( chính bạn ), để phòng khi hữu sự.

Phòng ngừa viêm gan là biện pháp có giá trị hơn là chữa bệnh. Cần thận trọng đối với tất cả máu người khác ( truyền hay kim dơ), tinh dịch và những chất thải khác của cơ thể (phân), chất nôn ói, chất tiết từ người bị nhiễm viêm gan B, có thể giúp ngăn ngừa lan rộng virus này.

Kết luận

Viêm gan siêu vi là bệnh thường gặp và phổ biến, bệnh thường không có triệu chứng và hậu quả chỉ trong thời gian ngắn. Tuy nhiên chúng có thể gây những bệnh lý nặng nề kéo dài như dẫn đến suy gan, xơ gan, và ung thư gan. Những người nghi ngờ bị nhiễm hoặc đã nhiễm nên gặp bác sĩ để bàn bạc có cần làm thêm những gì và điều trị như thế nào.

Sơ lược về viêm gan siêu vi

Nhiều bệnh lý có thể gây viêm gan

Virus tác động ngay từ đầu lên gan gọi là viêm gan siêu vi loại A, B, C , D, E, F (chưa xác nhận), và G .

Viêm gan B, C có thể gây bệnh mạn tính.

Triệu chứng của viêm gan siêu vi bao gồm mệt mỏi, chán ăn triệu chứng giống cảm cúm, nước tiểu vàng sậm, phân bạc màu, sốt và vàng da.
Vắc xin Viêm Gan A


Hai loại vắc xin Viêm Gan A hiện đang dùng: Havrix và Vaqta

Ai cần tiêm vắc xin ngừa Viêm Gan A ?

Những người có nguy cơ cao dễ bị nhiễm siêu vi viêm gan A và những người có bệnh lý gan mạn tính thì nên được chủng ngừa.

Những người có nguy cơ cao dễ nhiễm siêu vi viêm gan A là.

Khách du lịch đến các quốc gia , vùng dịch có bệnh viêm gan A lưu hành.

Những người có hành vi hoạt động tình dục .

Những người sử dụng bất hợp pháp thuốc gây nghiện ( ngay cả có tiêm hay không tiêm )

Các nhà nghiên cứu làm việc có tiếp xúc với siêu vi viêm gan A hoặc với các động vật dễ nhiễm siêu vi viêm gan A .

Những bệnh nhân bị rối loạn đông máu nhận chế phẩm từ máu.

Những người có bệnh lý gan mạn tính như xơ gan hoặc bị viêm gan C không nằm trong nhóm nguy cơ cao cần chủng ngừa viêm gan A nhưng bệnh có thể diễn tiến nghiêm trọng đưa đến suy gan ( đôi khi gây tử vong ) nếu bị nhiễm siêu vi viêm gan A , do đó họ nên được chủng ngừa .

Các nhà quản lý sức khoẻ địa phương và các công ty tư nhân yêu cầu chủng ngừa viêm gan A cho những người phụ trách dinh dưỡng.

Vắc xin viêm gan A được tiêm mấy lần ?

Vắc xin viêm gan A nên được tiêm bắp 2 liều . Với người trưởng thành :
- Vaqta : liều thứ hai nên được tiêm cách liều thứ nhất 6 tháng .
- Havrix : liều thứ hai nên được tiêm cách liều thứ nhất từ 6-12 tháng .



Ðối với thai phụ và phụ nữ đang cho con bú.

Tính an toàn của vắc xin viêm gan A trong thai kỳ chưa được chứng minh chắc chắn dù người ta cho rằng nguy cơ nhiễm siêu vi viêm gan A đối với bào thai thấp .

Ai không nên tiêm vắc xin viêm gan A ?

Những người từng có phản ứng dị ứng với các thành phần vắc xin như alum hay chất có tác dụng bảo quản 2-phenoxyethanol thì không nên tiêm vắc xin này .

Hiệu lực và tác dụng phụ của vắc xin viêm gan A

Tác dụng phụ thường gặp : đau nhức tại nơi tiêm chích , nhức đầu , tình trạng khó chịu .

Sau liều đầu tiên , người được chủng ngừa vắc xin có kháng thể bảo vệ lên tới 70% trong 2 tuần và trên 95% trong 4 tuần. ( Kháng thể bảo vệ là bảo vệ cơ thể chống lại sự nhiễm siêu vi viêm gan A )

Sau 2 liều chủng ngừa viêm gan A, sự miễn nhiễm siêu vi viêm gan A được cho là bền vững lâu dài .

Vì kháng thể bảo vệ cần nhiều tuần để phát triển , khách du lịch đến các quốc gia có bệnh viêm gan A đang phổ biến nên được chủng ngừa ít nhất 4 tuần trước khi khởi hành .

Các Trung Tâm Quản Lý Sức Khoẻ đề nghị đưa thêm globulin miễn dịch vào vắc xin chủng ngừa nếu như khởi hành trước 4 tuần . Globulin miễn dịch cung cấp sự bảo vệ nhanh hơn vắc xin nhưng sự bảo vệ này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn
Vắc xin viêm gan B


Engerix B và Recombivax HB là 2 loại vắc xin hiện đang dùng ở Mỹ .

Ai cần tiêm vắc xin Viêm Gan B?

Vắc xin viêm gan B được đề nghị tiêm cho :

Tất cả trẻ em dưới 7 tuổi .

Những trẻ vị thành niên dưới 18 tuổi chưa được chủng ngừa vắc xin viêm gan B khi dưới 7 tuổi .

Những người có nghề nghiệp tiếp xúc trực tiếp với máu và các dịch cơ thể .

Cư dân và nhân viên các tổ chức người tàn tật cộng đồng .

Những bệnh nhân đang thẩm tách máu thận (chạy thận nhân tạo).

Những người mắc bệnh máu khó đông và những bệnh nhân nhận chế phẩm từ máu.

Người tiếp xúc với người thân bị nhiễm virus viêm gan B và người hoạt động tình dục với bệnh nhân nhiễm virus viêm gan B ( những bệnh nhân xét nghiệm dương tính kháng nguyên bề mặt siêu vi viêm gan B ).

Khách du lịch trải qua trên 6 tháng ở những vùng có tỉ lệ nhiễm siêu vi viêm gan cao.

Ðối tượng sử dụng thuốc gây nghiện dạng tiêm và có hoạt động tình dục.

Những người có quan hệ đồng giới hoặc khác giới với nhiều bạn tình, hoặc sự lây nhiễm gần với các bệnh nhiễm lây qua đường tình dục.

Những tù nhân sống chung trong cùng điều kiện trừng phạt lâu dài.

Vắc xin viêm gan B được tiêm chủng như thế nào ?

Vắc xin viêm gan B nên được tiêm 3 liều, với liều thứ hai cách liều thứ nhất từ 1-2 tháng và liều thứ ba cách liều thứ nhất từ 4-6 tháng.

Sự chủng ngừa đạt kết quả tốt nhất khi được tiêm vào cơ Ðen-ta (cơ vai), không nên tiêm vào cơ mông.

Nếu lịch tiêm chủng 3 liều bị gián đoạn, điều này có thể chấp nhận được chỉ khi hoàn tất hết 3 lần tiêm chủng sau đó, không cần thiết phải bắt đầu lại từ đầu.

EngrixB và Recombivax HB có thể được dùng hoán đổi nhau bất cứ thời điểm nào trong suốt lịch trình tiêm chủng.

Ðối với thai phụ và phụ nữ đang cho con bú.

Tất cả các thai phụ nên có kỳ kiểm tra máu tìm kháng nguyên bề mặt viêm gan B ( HbsAg ). Những thai phụ có xét nghiệm kháng nguyên bề mặt HBsAg dương tính có nguy cơ lây nhiễm siêu vi cho đứa bé trong khi sinh. Do đó đứa trẻ sinh ra từ mẹ có HBsAg dương tính nên được nhận thêm globulin miễn dịch viêm gan (HBIG) vào vắc xin viêm gan B ngay sau khi ra đời. Dù vắc xin viêm gan B có thể cho miễn dịch bền vững lâu dài nhưng cần nhiều thời gian để hình thành. Trong khi đó HBIG là một dung dịch kháng thể có thể cho miễn dịch nhanh hơn dù thời gian tác dụng ngắn .


Ai không nên tiêm vắc xin viêm gan B ?

Những người dị ứng quá mẫn với các loại men hoặc từng có phản ứng dị ứng với vắc xin thì không nên tiêm ngừa.

Những bệnh nhân đã nhiễm siêu vi viêm gan B trước đó hoặc hiện đang nhiễm thì không nên tiêm ngừa vắc xin.

Hiệu lực và tác dụng phụ của vắc xin viêm gan B như thế nào ?

Tác dụng phụ của sự chủng ngừa viêm gan B thường rất ít như : đau tại nơi tiêm và sốt nhẹ .

Vắc xin viêm gan B có hiệu quả 95% . 5% những người được chủng ngừa sẽ thất bại trong việc tạo kháng thể cần thiết cho sự miễn dịch sau 3 liều tiêm .

Những bệnh nhân có miễn dịch kém (như bị nhiễm HIV) , bệnh nhân già , những bệnh nhân đang chạy thận nhân tạo hầu như phần lớn thất bại với chủng ngừa vắc xin .

Sự chủng ngừa viêm gan B cần nhiều thời gian để có hiệu quả . Do đó , những người không được chủng ngừa có sự tiếp xúc trực tiếp với các vật dụng có khả năng gây nhiễm (như nhân viên chăm sóc sức khoẻ bị gây nhiễm bởi kim tiêm đâm phải) sẽ cần đưa thêm globulin miễn dịch viêm gan (HBIG) vào vắc xin viêm gan B. HBIG là một dung dịch kháng thể cho sự miễn dịch nhanh hơn vắc xin (dù thời gian tác dụng ngắn)
Bảng xét nghiệm viêm gan siêu vi


Các tên gọi khác

Xét nghiệm kháng thể viêm gan siêu vi A;Xét nghiệm kháng thể viêm gan siêu vi B; Xét nghiệm kháng thể viêm gan siêu vi C; Xét nghiệm kháng thể viêm gan siêu vi D.

Định nghĩa

Các xét nghiệm máu về viêm gan siêu vi nhằm phát hiện sự hiện diện của kháng thể kháng virus gây bệnh lý viêm gan(là tình trạng viêm nhiễm tại gan). Các xét nghiệm này đặc hiệu với viêm gan siêu vi A,B,hoặc C. Một “bảng” các xét nghiệm có thể được dùng trong tầm soát các mẫu máu có bị nhiều hơn một loại viêm gan siêu vi trong cùng một thời điểm.

Xét nghiệm được tiến hành như thế nào?
Người lớn và trẻ em:

Máu sẽ được lấy từ tĩnh mạch,thường là ở mặt trong khủy tay hay trên mặt mu bàn tay. Vị trí lấy máu sẽ được sát trùng và phần trên cánh tay được buột dây garô để tạo áp lực cũng như hạn chế máu lưu thông trong tĩnh mạch. Phương pháp này giúp các tĩnh mạch phía dưới dây garô căng lên(chứa đầy máu). Một kim tiêm được đâm vào tĩnh mạch và máu lấy ra sẽ được chứa trong lọ kín hoặc trong ống tiêm(syringe). Trong quá trình lấy máu, dây garô được tháo ra để tái lập tuần hoàn. Sau khi lấy máu,kim tiêm sẽ được rút ra và vùng lấy máu được băng bó để giúp máu ngưng chảy.

Trẻ nhũ nhi hay trẻ nhỏ:

Vùng lấy máu được sát trùng và được đâm bằng một loại kim bén hay bằng lưỡi trích (lancet). Máu được đựng trong một pipette(ống thủy tinh nhỏ), trên lam, trên giấy thử, hoặc trong một lọ nhỏ. Có thể phải dùng bông hay băng ép lên vùng lấy máu nếu máu vẫn tiếp tục chảy.

Xét nghiệm có gây đau không?

Khi đâm kim tiêm vào để lấy máu,một số người thấy đau mức độ vừa, trong khi những người còn lại chỉ có cảm giác như khi bị côn trùng đốt hay chích. Sau đó, một số cơn đau nhói có thể xuất hiện.

Tại sao phải làm xét nghiệm?

Các xét nghiệm trên dùng để phát hiện tình trạng nhiễm trùng do các virus gây viêm gan. Viêm gan là một tình trạng viêm nhiễm ở gan. Có 3 loại virus gây viêm gan thường gặp là virus gây viêm gan A,B và C.

Virus gây viêm gan A (HAV)thường lan nhanh khi ăn thực phẩm bị nhiễm phân người bệnh. Thời kỳ ủ bệnh là từ 2 đến 6 tuần.

Virus gây viêm gan B(HBV) rất hay lây truyền qua con đường máu, nhưng cũng có thể thông qua các loại dịch khác trong cơ thể. HBV có thể gây viêm gan thể nặng và tiến triển thành suy gan giai đoạn cuối dẫn đến tử vong. Xuất độ của HBV cao hơn ở những người được truyền máu, giới đồng tính, bệnh nhân được thẩm phân,ghép tạng và sử dụng thuốc chích qua đường tĩnh mạch. Thời kỳ ủ bệnh tương đối dài (5 tuần đến 6 tháng).

Virus gây viêm gan B có cấu tạo gồm một lõi bên trong được bao bọc bởi một lớp áo (capsule)bên ngoài. Lớp áo ngoài này chứa một protein mang tên HbsAg(kháng nguyên bề mặt virus viêm gan B). Thành phần lõi bên trong chứa HbcAg(kháng nguyên lõi của virus viêm gan B). Một loại protein thứ ba tên là HbeAg cũng được tìm thấy trong phần lõi. Để phát hiện bản thân virus viêm gan B, các xét nghiệm được chỉ định để tìm kháng thể của bệnh nhân chống lại các kháng nguyên trên. Các kháng thể này được gọi là HbsAb, HbcAb,và HbeAb.

Virus gây viêm gan C(HCV) được truyền theo con đường tương tự như HBV. Thời kỳ ủ bệnh là từ 2 đến 12 tuần sau khi tiếp xúc. Các biểu hiện lâm sàng của bệnh giống như những biểu hiện do HBV.

Các virus gây viêm gan D gây bệnh khi có sự hiện diện của HBV. Trên bảng kháng thể viêm gan thì ít khi làm kiểm tra thường qui loại virus này.

Các yếu tố nguy cơ

· Chảy máu quá nhiều

· Choáng hoặc cảm giác chóng mặt

· Hematôm (khối máu tụ dưới da)

· Nhiễm trùng(luôn luôn có nguy cơ thấp bất cứ khi nào da bị mất toàn vẹn)

· Có thể đâm kim nhiều lần trước khi vào được tĩnh mạch

Những điều cần lưu ý

Các mạch máu có thể khác nhau về kích thước giữa bệnh nhân này với người khác hoặc từ vùng này sang vùng khác trên cùng một người. Do đó,việc lấy máu trên một số người có thể gặp nhiều khó khăn hơn những người khác.

Các giá trị bình thường

Bình thường khi không có sự hiện diện của các loại kháng thể kể trên (kết quả âm tính).

Các kết quả bất thường

Các loại xét nghiệm huyết thanh được phát triển nhằm phát hiện sự hiện diện của kháng thể đối với từng loại virus gây viêm gan trong huyết thanh nhằm làm bằng chứng cho thấy có sự nhiễm những virus trên. Kháng thể loại IgM xuất hiện sau 3 đến 4 tuần bị nhiễm và thường trở về bình thường sau khoảng 8 tuần. Kháng thể IgG xuất hiện khoảng 2 tuần sau khi IgM bắt đầu tăng cao;IgG có thể tồn tại suốt đời. Nếu kháng thể IgM tăng trong khi không thấy IgG thì có thể nghi ngờ đây là loại viêm gan cấp. Nếu IgG tăng nhưng IgM không tăng thì có khả năng đây là tình trạng viêm mạn hoặc đã khỏi bệnh.

Kết quả xét nghiệm dương tính có thể do:

· Viêm gan siêu vi A

· Viêm gan siêu vi B

· Viêm gan siêu vi C

· Tình trạng viêm gan siêu vi B mạn tính hay người lành mang trùng.

· Viêm gan siêu vi D, khi thấy có sự hiện diện của viêm gan siêu vi B.

Các chỉ định khác của xét nghiệm trên:

· Viêm gan mạn tính kéo dài

· Viêm gan siêu vi D

· Hội chứng thận hư
Phạm vi của vấn đề?

Khoảng một phần ba dân số thế giới một lúc nào đó có tiếp xúc với HBV. Hơn nữa, ước tính 350 triệu người khắp thế giới là bị nhiễm HBV mạn tính ( thời gian lâu dài ). Hệ quả là dẫn đến 2 triệu người chết mỗi năm do những biến chứng của nhiễm trùng HBV.

Theo tính toán của trung tâm kiểm soát bệnh tật ( CDC),140000 đến 320000 trường hợp viêm gan B cấp tính ( nhiễm trùng gan do HBV trong thời gian ngắn ) mỗi năm ở Mỹ. Tuy nhiên, khoảng 50% trường hợp cấp tính là có triệu chứng. Trong số có triệu chứng thì có đến 8400 tới 19000 phải nhập viện và 140 đến 320 người chết mỗi năm ở Mỹ. Trong những thập niên qua, tỉ lệ mắc bệnh viêm gan B cấp giảm hơn 70%. Sự giảm xuống này là do sự hiểu biết trong cộng đồng có gia tăng về HIV và AIDS và thực hiện biện pháp tình dục an toàn ( HBV và HIV lây qua đường này rất nhiều ). Hiện nay tỉ lệ mắc bệnh viêm gan B cấp cao nhất ở người trẻ, đặc biệt là người da đen và người gốc Tây Ban Nha, từ 20 đến 30 tuổi.

Hấu hết ở người trẻ (>95%) bị viêm gan B cấp sẽ hồi phục hoàn toàn. Kết quả là họ tạo nên miễn dịch (đây là một hình thức bảo vệ) với việc nhiễm HBV sau này. Ngược lại, ở hầu hết nhũ nhi và trẻ em bị nhiễm HBV cấp sẽ trở thành mạn tính. Do vậy, ở Mỹ ước tính từ 1 đến 1,25 triệu người nhiễm HBV mạn tính. Hơn nữa, 5000 đến 6000 người chết mỗi năm bệnh gan do nhiễm HBV và biến chứng bao gồm cả ung thư gan nguyên phát.

Ở một vài nơi trên thế giới nhiễm trùng HBV luôn luôn tồn tại (bệnh địa phương) trong cộng đồng. Ví dụ, ở Nam Á và Trung Phi, có khoảng 15-20% người trẻ nhiễm HBV mạn tính. Ở Mỹ, tỉ lệ nhiễm trùng mạn tính cao chỉ thấy ở một vài quần thể nhân chủng đặc biệt. Bao gồm, người gốc Alaska, từ các đảo Thái Bình Dương và những nhũ nhi của người mẹ thuộc thế hệ đầu tiên di cư từ những nước có tỉ lệ nhiễm HBV cao.

HBV thuộc loại vi rút nào ?

HBV thuộc họ DNA vi rút gọi là Hepadnaviridae. Những vi rút này đầu tiên nhiễm vào tế bào gan. Tên gọi xuất phát từ Hepa nghĩa là gan, DNA có nghĩa là nó có deoxyribonucleic acid, là chất liệu di truyền của vi rút, và viridae nghĩa là vi rút. Những loại vi rút khác thuộc họ này có thể gây viêm gan ở một số loài vật. Như vi rút viêm gan ở sóc Bắc Phi, sóc và vi rút viêm gan ở vịt. Hepadnaviridae tuơng tự với những vi rút đó. Từ đó, một vài loại vật ở trên được dùng nghiên cứu để đánh giá thuốc mới để điều trị HBV.

Gen của HBV chứa mã di truyền tạo ra một vài loại protein, bao gồm kháng nguyên bề mặt ( HBsAg ) kháng nguyên lõi ( HBcAg ) kháng nguyên e ( HBeAg ) và DNA polymerase. Bốn loại protein này có vai trò quan trọng để nhận biết bởi vì có thể đo lường được qua kiểm tra máu để chẩn đoán HBV.

HBV đơn giản bao gồm phần lõi (ở trung tâm ) và lớp bao phủ bên xung quanh ( lớp áo bên ngoài). Phần lõi tạo nên HBcAg, còn lớp vỏ tạo nên HBsAg. Phần lõi chứa HBV DNA, HBeAg và DNA polymerase. HBeAg được nói rõ sau, là một chỉ điểm khả năng lây nhiễm của vi rút. DNA polymerase là một phần quan trọng trong quá trình sinh sản của vi rút. Điều có liên quan đến vấn đề này là HIV cũng có tiến trình sinh sản tương tự. Như là hệ quả, những thuốc đang được phát triển để kiềm chế quá trình sinh sản trong điều trị HIV có thể có hiệu quả trong điều trị nhiễm trùng viêm gan B mạn. HBV gây tổn thương gan như thế nào ?

HBV tự nó không gây tổn thương gan trực tiếp. Hơn nữa, hệ miễn dịch của cơ thể đáp ứng với vi rút ( là vật lạ) gây ra tổn thương. Vì vậy, trong nhiễm trùng HBV, miễn dịch của cơ thể có hai nhiệm vụ là hạn chế HBV phát triển trong cơ thể và hồi phục khỏi nhiễm trùng. Cùng lúc này tổn thương tế bào gan là do hoạt động của hệ miễn dịch chống lại HBV trong tế bào gan.

Vì lẽ đó, có sự cân bằng giữa bảo vệ và phá hủy của hệ miễn dịch trong quá trình đáp ứng HBV. Sự cân bằng này sẽ xác định kết quả của những người bị nhiễm HBV. Theo đó, một nhiễm trùng HBV cấp có thể hồi phục (kết quả thường gặp), suy gan cấp (hiếm) và thỉnh thoảng thành nhiễm trùng mạn tính. Nhiễm trùng mạn có thể dẫn đến tình trạng người lành mang mầm bệnh (là tình trạng người đó mang vi rút trong người nhưng vẫn khỏe mạnh) và diễn tiến đến xơ gan và biến chứng như ung thư gan. Viêm gan B lây truyền như thế nào ?

HBV lây nhiễm khi tiếp xúc với máu hay dịch tiết của cơ thể bị nhiễm HBV. Sự tập trung cao lượng HBV được tìm thấy trong máu, tinh dịch, dịch tiết âm đạo, sữa mẹ, và nước bọt. Rất ít trong nước tiểu và không có trong phân. Vì vậy, HBV không lây qua thực phẩm hay nước uống. Hơn nữa, HBV không còn lây qua đường truyền máu nữa vì tất cả máu truyền được sàng lọc để loại ra máu bị nhiễm HBV.

Ở Mỹ, thanh thiếu niên và người trẻ là số lượng chính trong báo cáo các trường hợp nhiễm viêm gan B. Tiếp xúc qua đường tình dục ( giao hợp) là con đường lây nhiễm nhiều nhất. Vi rút có thể lây nhiễm qua máu chứa HBV hay dịch cơ thể theo nhiều đường khác nhau. Đó là, dùng thuốc tiêm mạch hay tiêm dưới da, xâm mình, xỏ lỗ tai, châm cứu với những dụng cụ không vô trùng. Ngoài ra HBV còn lây do dùng chung bàn chải đánh răng, dao cạo râu. Cuối cùng những côn trùng hút máu như muỗi và rệp ở vùng nhiệt đới đã được báo cáo là gây lây nhiễm HBV.

Sau cùng ( nhưng không phải là hết), HBV có thể lây do từ mẹ sang con trong lúc sinh ( còn gọi là lây nhiễm theo đường dọc ). Đây là con đường lây nhiễm quan trọng nhất ở những vùng mà tình trạng nhiễm trùng HBV luôn luôn tồn tại như Nam Á, Trung Phi. Tỉ lệ trẻ sinh ra bị lây nhiễm từ mẹ rất cao khoảng 100% . Hơn nữa, hầu hết các đứa bé này sẽ trở thành nhiễm trùng HBV mạn tính.

Triệu chứng của viêm gan B cấp ?

Viêm gan B cấp khởi phát nhanh trong thời gian ngắn sau khi nhiễm trùng HBV. Khoảng 70% người trẻ viêm gan cấp có một vài triệu chứng hay không triệu chứng. Số 30% còn lại có triệu chứng trong vòng 2-4 tháng sau khi tiếp xúc HBV. Khoảng thời gian từ sau khi tiếp xúc HBV đến khi có triệu chứng đầu tiên gọi là thời gian ủ bệnh. Những triệu chứng viêm gan B cấp thường là mệt mỏi, chán ăn, buồn nôn, và đau bụng vùng gan. Vàng da thường phối hợp với những triệu chứng này. Khi vàng da xảy ra được xem như là viêm gan vàng da cấp ( thời kì vàng da ).

Theo đó, những người bị viêm gan cấp có tiền triệu là những triệu chứng có trước khi khởi phát những triệu chứng nói trên. Những triệu chứng đó là giống như phản ứng dị ứng như da nổi mẩn, đau, sưng khớp và sốt nhẹ. Nói cách khác, triệu chứng tiền triệu giống như là triệu chứng cúm.

Hiếm khi ( < 0,5%) viêm gan B cấp diễn tiến thành suy gan cấp ( khởi phát một cách đột ngột ). Những bệnh nhân này cực kỳ nặng với những triệu chứng đã nói ở trên, ngoài ra còn có vấn đề lú lẫn hay hôn mê ( bệnh não ) và vết bầm máu hay chảy máu ( bệnh do rối loạn đông máu ). Thực tế hơn 80% trường hợp viêm gan tối cấp, người bệnh sẽ tử vong trong vòng vài ngày đến vài tuần.

Điều gì xác định viêm gan B cấp ?

Như đã đề cập, một số người có khả năng giới hạn HBV trong cơ thể và hồi phục khỏi viêm gan cấp phụ thuộc vào sức mạnh của hệ miễn dịch cơ thể đáp ứng với tình trạng nhiễm trùng. Hệ miễn dịch đáp ứng mạnh, đa số có thể tin là ức chế được vi rút và hồi phục. Tuy nhiên, ngoài ra đáp ứng miễn dịch mạnh còn gây tổn thương gan cấp và có triệu chứng. Mặt khác, hệ miễn dịch đáp ứng yếu kết quả là ít tổn thương gan và ít triệu chứng hơn. Tuy nhiên, hệ miễn dịch đáp ứng yếu thì khả năng hạn chế vi rút kém hơn và gần như là trở thành nhiễm trùng HBV mạn tính. Quả thực, hầu hết nhũ nhi và trẻ con nhiễm trùng HBV cấp không triệu chứng nhưng tỉ lệ phát triển thành viêm gan mạn hơn 95%.

Hấu hết ở người trưởng thành ( khoảng 95%), số người viêm gan cấp có triệu chứng, viêm gan vàng da sẽ hồi phục hoàn toàn trong vòng 2-3 tháng. Họ cũng hình thành miễn dịch và bảo vệ được những lần nhiễm sau đó. Hơn nữa, những người này hiếm khi phát triển thành viêm gan mạn. Ngược lại, chỉ có một ít hay không có triệu chứng trong thời gian viêm gan cấp thì khả năng chống lại nhiễm trùng kém hơn và có khả năng thành viêm gan mạn hơn.
_Triệu chứng của nhiễm viêm gan B mạn tính là gì ?

Triệu chứng viêm gan B mạn được thảo luận qua 5 loại : viêm gan B mạn, xơ gan, xơ gan diễn tiến, ung thư gan, và liên quan đến các cơ quan ngoài gan. Chẩn đoán nhiễm HBV tốt nhất là dựa trên những xét nghiệm máu chuyên biệt cho HBV.

Viêm gan B mạn
Theo định nghĩa là chẩn đoán viêm gan B mạn chỉ thực hiện sau 6 tháng kể từ khi khởi phát viêm gan B cấp. Thường khó khăn để nghi ngờ viêm gan B mạn nếu chỉ dựa trên triệu chứng của bệnh nhân. Lý do của sự khó khăn như đã nói là trong giai đoạn cấp thường không có hay rất ít triệu chứng.

Hơn nữa, hấu hết số người viêm gan B mạn vẫn không triệu chứng trong nhiều năm thậm chí 2 -3 thập niên.

Trong khoảng thời gian này các xét nghiệm máu chỉ cho thấy có bất thường ít, sự viêm nhiễm hay sẹo hóa ở gan diễn tiến ít. Tuy nhiên, trong số người viêm gan mạn không hoạt động có thể phát triển những đợt tổn thương ( tái hoạt động) có triệu chứng cấp tính, gia tăng các thay đổi trong xét nghiệm máu và tình trạng viêm gan. Những đợt tổn thương này gần giống như viêm gan cấp, nhưng chúng có thể diễn tiến thành sẹo hóa gan mạn tính.

Chúng có khuynh hướng xảy ra ở những người bị nhiễm trùng mạn tính lúc trẻ tuổi.

Xơ gan do HBV

Tuy nhiên, ở vào một thời điểm nào đó viêm gan mạn có thể diễn tiến thành xơ gan ( sẹo hóa nhiều, hay xơ hoá). Những bệnh nhân này có thể có dấu hiệu hay triệu chứng ( dấu hiệu bất thường qua khám lâm sàng ) của xơ gan. Ví dụ như yếu người, mệt mỏi, và dễ bị nhiễm trùng. Giảm khối cơ, đặc biệt là vùng vai và mông. Thực tế, có thể bị suy dinh dưỡng và sụt cân do tiêu hóa không còn bình thường, rối loạn hấp thu, hay bất thường chuyển hóa dinh dưỡng ở gan. Vì vậy, sự thiếu các chất sinh tố như vitamin A gây giảm thị lực vào ban đêm, vitamin D gây mỏng xương cột sống và xương chậu. Bệnh nhân xơ gan cũng biểu hiện rõ những dấu hiệu suy tế bào gan như vú to ( nữ hóa), teo tinh hoàn, lòng bàn tay son, dấu dãn mạch đặc trưng trên da ( sao mạch).

Xơ gan diễn tiến do HBV.

Cơ bản nhất, diễn tiến xơ gan dẫn tới xơ gan cấp tính được đặc trưng bởi sự phát triển một vài biến chứng. Xơ gan cấp tính còn có nghĩa là giai đoạn cuối của xơ gan hay suy gan mạn. Một vài tác giả sử dụng thuật ngữ xơ gan mất bù, cũng đồng nghĩa với xơ gan cấp tính. Tuy nhiên, nói cách khác thuật ngữ xơ gan mất bù dùng cho xơ gan cấp tính bao gồm những biến chứng đặc biệt mà hậu quả đầu tiên là tăng áp lực hệ cửa. Còn một vài biến chứng của viêm gan cấp tính còn do nhiều nguyên nhân khác.

Theo đó, những biến chứng của xơ gan cho thấy tình trạng xơ gan cấp tính được nói rõ ở phần sau. Những biến chứng này là hậu quả từ sự tăng áp lực hệ cửa (ứ dịch, bệnh não, xuất huyết tiêu hóa trên, cường lách và hội chứng gan thận) cũng như bệnh lý đông máu, vàng da, và hội chứng phổi gan.

Tăng áp lực hệ cửa là từ để chỉ sự gia tăng áp lực trong hệ tĩnh mạch cửa xảy ra ở những bệnh nhân xơ gan cấp tính ( hệ tĩnh mạch cửa dẫn lưu máu từ ruột và các cơ quan trong ổ bụng về gan). Biến chứng thường gặp nhất của xơ gan mà hậu quả từ tăng áp lực hệ cửa là ứ dịch cơ thể, bệnh não gan, và xuất huyết tiêu hóa trên. Sự ứ dịch làm cho sưng mắc cá chân ( phù) và phù bụng ( báng bụng hay cổ chướng). Đôi khi dịch ứ đọng đó bị nhiễm trùng ( viêm phúc mạc nguyên phát), gây sốt và đau bụng. Bệnh não do gan gây tình trạng ngủ gà, lẫn lộn hay hôn mê. Sự dãn các tĩnh mạch ở thực quản và dạ dày mà khi vỡ gây ra xuất huyết tiêu hóa. Bệnh nhân sẽ ói ra máu đỏ tươi hay tiêu phân đen ( thậm chí đen như hắc ín).

Một vài bệnh nhân cường lách, một biến chứng do tăng áp lực hệ cửa. Những bệnh nhân này có lách to, giảm hồng cầu ( thiếu máu), giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu. Thiếu máu gây yếu người, mệt mỏi, giảm bạch cầu góp phần dễ nhiễm trùng và giảm lượng tiểu cầu làm giảm khả năng đông máu. Những bệnh nhân có tăng áp lực hệ cửa cũng có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến chức năng thận mà không có tổn thương thận thực thể ( hôi chứng gan thận).

Trong xơ gan cấp tiến, như đã để cập, những biến chứng khác có thể xảy ra bên cạnh những biến chứng do tăng áp lực tĩnh mạch cửa. Ví dụ, một vài bệnh nhân có khuynh hướng dễ có vết bầm máu hay chảy máu, bởi vì sự giảm chức năng gan gây ra bất thường trong quá trình đông máu. Bệnh nhân xơ gan cấp tiến có thể vàng da bởi vì tổn thương gan làm mất sự cân bằng các sắc tố gọi là bilirubin. Hiếm hơn, một vài bệnh nhân có thể khó thở do một vài hormon được phóng thích trong xơ gan cấp tiến gây ra bất thường chức năng phổi ( hôi chứng gan phổi).

Ung thư gan nguyên phát

Ung thư gan có thể phát triển ở những bệnh nhân nhiễm HBV mạn như là biến chứng của viêm gan cấp tiến. Ung thư gan nguyên phát này ( ung thư gan bắt đầu từ tế bào gan) hầu hết xảy ra ở những người có HBV hoạt động sinh sản ở Trung Quốc và những người da đen. Con đường dẫn tới xơ gan chưa được hiểu biết đầy đủ. Được cho là vì một lý do nào đó HBV DNA trở nên kết hợp với DNA của tế bào gan của bệnh nhân.

Triệu chứng và dấu hiệu thường gặp nhất của ung thư gan là đau bụng và phù, cường lách, sụt cân và sốt. Ngoài ra, khối u gan có thể sản xuất và phóng thích những chất làm tăng hồng cầu, giảm đường máu và tăng canxi máu. Chẩn đoán sàng lọc ung thư gan thường dùng nhất là xét nghiệm đo nộng độ alpha-fetoprotein máu và siêu âm gan.

HBV liên quan đến các cơ quan khác ngoài gan.

Hiếm khi nhiễm trùng viêm gan B mạn lại dẫn đến những rối loạn ảnh hưởng các cơ quan khác ngoài gan.

Sự lắng đọng các phức hợp miễn dịch đặc biệt ở nhiều cơ quan khác nhau có thể gây ra những rối loạn. Một phức hợp miễn dịch HBV là toàn bộ sự gắn kết với nhau của kháng nguyên và kháng thể HBV. Kháng nguyên là một chất lạ đối với cơ thể và kháng thể là một protein đặc biệt được tạo ra bởi tế bào bạch cầu để đáp ứng lại kháng nguyên .

Phức hợp miễn dịch HBV lắng xuống hay lắng đọng ở những động mạch nhỏ khắp cơ thể gây ra tình trạng viêm những mạch máu này, gọi là viêm đa nốt quanh động mạch. Bệnh này có thể gây ra nhiều triệu chứng : yếu người, tổn thương thần kinh, loét da sâu, vấn đề ở thận với tiểu đạm và đôi khi gây suy thận, cao huyết áp, sốt không giải thích được nguyên nhân và đau bụng. Phức hợp miễn dịch có thể gây tổn thương thận theo cách khác. Đó là, phức hợp miễn dịch lắng đọng ở tiểu cầu thận ( bộ phận lọc) gây ra bệnh viêm cầu thận, bệnh này khác với bệnh lý thận do viêm đa nút quanh động mạch.

Viêm gan B được chẩn đoán như thế nào ?

Viêm gan B được chẩn đoán từ kết quả những xét nghiệm máu chuyên biệt ( huyết thanh chẩn đoán ) mà nó phản ánh những thành phần khác nhau của HBV. Những xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán khác với xét nghiệm chức năng gan ( như men gan ALT, AST) mà xét nghiệm này có thể thay đổi bất thường khi gan bị tổn thương do bất kì nguyên nhân nào bao gồm cả nhiễm HBV.

HBsAg và anti- HBs
Chẩn đoán nhiễm viêm gan B đầu tiên được nghĩ khi phát hiện kháng nguyên bề mặt của HBV trong máu ( HBsAg ). Sự hiện diện HBsAg nghĩa là có nhiễm HBV hoạt động còn không có HBsAg nghĩa là không có nhiễm HBV hoạt động. Sau khi tiếp xúc HBV, HBsAg sẽ xuất hiện trong máu trong vòng 4 tuần. Ở những người hồi phục sau viêm gan B cấp, ức chế hay đào thải được vi rút thì HBsAg chỉ có trong 4 tháng kể từ lúc xuất hiện triệu chứng đầu tiên. Nhiễm viêm gan B mạn được định nghĩa là sự tồn tại HBsAg hơn 6 tháng.

Sau khi HBsAg được ức chế trong cơ thể, kháng thể chống lại HBsAg (anti- HBs) xuất hiện. Những anti- HBs tạo nên miễn dịch trong những lần nhiễm trùng HBV sau này. Đồng thời, những người được chủng ngừa bằng vacxin thành công cũng được đo anti- HBs trong máu.



Anti- HBc
Kháng nguyên lỏi của vi rút viêm gan B chỉ được tìm thấy trong gan và không thể phát hiện được trong máu. Sự hiện diện số lượng lớn kháng nguyên lõi của vi rút viêm gan B cho thấy vi rút đang trong quá trình sinh sản. Điều này có nghĩa là vi rút đang hoạt động. Kháng thể kháng lại kháng nguyên lõi (anti- HBc) được phát hiện trong máu. Từ vấn đề đó, có hai loại kháng thể anti-HBc ( IgM và IgG) được tạo ra.

IgM anti- HBc là dấu hiệu nhiễm trùng HBV cấp. IgM anti- HBc được thấy trong máu trong giai đoạn viêm gan cấp và tồn tại tối đa 6 tháng kể từ lúc khởi phát triệu chứng. IgG anti- HBc xuất hiện trong giai đoạn viêm gan cấp và tồn tại sau đó, dấu hiệu chỉ điểm ở những người hồi phục hay qua giai đoạn viêm gan mạn. Theo đó, chỉ IgM anti- HBc mới được dùng để chẩn đoán nhiễm viêm gan B cấp . Hơn nữa, chỉ xác định anti- HBc toàn phần ( không xác định hai thành phần ) thì không giúp ích cho chẩn đoán.

HBeAg, anti- HBe và thể biến chủng.

Kháng nguyên e của HBV và kháng thể của nó, anti- HBe để xác định sự lây nhiễm của vi rút ở người nhiễm HBV mạn. Sự phát hiện cả hai HBeAg và anti- HBe thường riêng rẽ nhau. Theo đó, sự hiện diện HBeAg nghĩa là vi rút đang hoạt động và có khả năng lây nhiễm cho người khác, còn sự hiện diện anti- HBe dấu hiệu tình trạng vi rút không hoạt động và ít nguy cơ lây nhiễm hơn.

Ở một vài người bị nhiễn HBV, chất liệu di truyền của vi rút đã bị biến đổi một phần gọi là thể biến chủng. Kết quả của sự biến chủng này là không khả năng tạo ra HBeAg, ngay cả khi vi rút đang giai đoạn sinh sản. Điều này có nghĩa là mặc dù không phát hiện HBeAg trong máu ở người nhiễm thể biến chủng thì vi rút HBV vẫn còn hoạt động ở những người này và vẫn có thể lây nhiễm cho người khác.

HBV DNA
Đánh dấu đặc biệt nhất sự sinh sản vi rút HBV là đo lường HBV DNA trong máu. DNA là chất liệu di truyền của HBV. HBV DNA có nồng độ cao cho thấy vi rút đang ở giai đoạn sinh sản và hoạt động. Nồng độ thấp hay không phát hiện được HBV DNA là ứng với giai đoạn vi rút không hoạt động ở người bị nhiễm HBV. Các phòng thí nghiệm có giá trị đo lường HBV DNA khác nhau.

PCR ( phản ứng chuỗi polymerase ) là phương pháp nhạy cảm nhất để xác định mức HBV DNA. Có nghĩa là PCR là phương pháp tốt nhất để phát hiện một lượng nhỏ HBV. Phương pháp này được thực hiện bằng khuếch đại chất liệu di truyền lên hàng tỉ lần để phát hiện. Vì vậy, PCR có thể đo lường chỉ với khoảng 50-100 HBV/ml máu. Tuy nhiên, phương pháp này quá nhạy cảm cho việc sử dụng để chẩn đoán.

Mục đích đo lường HBV DNA thường để xác định có nhiễm HBV hoạt động hay không hoạt động. Sự phân biệt này có thể dựa trên số lượng HBV DNA trong máu. Mức DNA cao cho thấy sự nhiễm trùng đang hoạt động trong khi đó mức DNA thấp chỉ ra rằng tình trạng nhiễm trùng đang yên lặng hay không hoạt động. Vì vậy, bệnh nhân với tình trạng tiềm tàng không hoạt động thì có khoảng 1 triệu HBV/ml máu, còn bệnh nhân có bệnh đang diễn tiến thì có khoảng vài tỉ HBV/ml máu. Do đó, bất kì người nào có HBsAg dương tính ngay cả khi sự nhiễm trùng HBV không hoạt động, sẽ có thể phát hiện được HBV DNA bằng phương pháp PCR do nó rất nhạy cảm.

Đối với những mục đích riêng biệt, HBV DNA có thể được đo lường bằng cách sử dụng phương pháp sản xuất giống lai, phương pháp này ít nhạy cảm hơn PCR. Không giống như PCR, phương pháp này đo lượng vi rút mà không có sự khuếch đại. Theo đó, xét nghiệm này có thể phát hiện HBV chỉ khi có nhiều vi rút hiện diện trong máu, nghĩa là sự nhiễm trùng đang hoạt động. Nói cách khác, từ một phương diện khác nếu HBV DNA được phát hiện với phương pháp này nghĩa là sự nhiễm trùng HBV đang hoạt động
(còn tiếp)
(Theo BSGD)
Vai trò sinh thiết gan trong viêm gan B mạn tính ?

Sinh thiết gan là phần quan trọng trong quá trình nghiên cứu viêm gan B mạn. Xét nghiệm này có giá trị bởi vì một mẫu mô nhỏ được lấy từ gan là đại diện cho toàn bộ phần gan còn lại. Hơn nữa, chẩn đoán viêm gan mạn có thể thường thực hiện qua sinh thiết. Tuy nhiên, loại viêm gan mạn không thể xác định qua sinh thiết như viêm gan mạn do HBV hay HCV, hay viêm gan tự miễn.

Bệnh sử của bệnh nhân, khám lâm sàng, xét nghiệm chức năng gan và huyết thanh chẩn đoán cùng với kết quả sinh thiết được thực hiện để chẩn đoán các loại viêm gan mạn chuyên biệt. Sinh thiết gan còn là một kiểm tra tình trạng tổn thương gan ( do viêm ) và sẹo hóa trong viêm gan mạn và xơ gan. Những thông tin từ mẫu sinh thiết sau đó được sử dụng để xác định tiên lượng bệnh cũng như sự cần thiết điều trị kháng vi rút.

Diễn tiến tự nhiên của viêm gan B mạn ?

Sự nhiễm HBV có thể diễn tiến từ thời kỳ dung nạp miễn dịch ( là giai đoạn hệ miễn dịch lờ vi rút ) tiếp sau là giai đoạn miễn dịch đào thải ( là lúc hệ miễn dịch chống lại và ức chế vi rút ) đến giai đoạn yên lặng. Quá trình diễn tiến của viêm gan B mạn thì cũng như vậy. Tuy nhiên, có liên quan đến một vài yếu tố gồm tuổi bệnh nhân bắt đầu bị nhiễm. Vì vậy, diễn tiến của viêm gan B mạn ở những người bị nhiễm lúc nhỏ thì hoàn toàn khác với người bị nhiễm lúc lớn. Điều cơ bản nhất là diễn tiến bệnh phụ thuộc phần lớn vào phản ứng hay sự cân bằng giữa hệ miễn dịch của cơ thể và vi rút.

Thời kỳ dung nạp miễn dịch là gì ?

Đối với những người bị nhiễm lúc nhỏ ( ví dụ trẻ mới sinh ra ở Nam Á hay Trung Phi), hệ miễn dịch ban đầu không nhận biết hay phản ứng với HBV. Giai đoạn này được biết như giai đoạn dung nạp miễn dịch bởi vì hệ miễn dịch dường như chấp nhận vi rút. Có một điều là hệ miễn dịch được tiếp xúc với HBV trong khi hệ miễn dịch vẫn chưa phát triển hoàn chỉnh vì lẽ đó không thể nhận biết HBV như là vật lạ. Một điều khác nữa, vi rút có thể tự bộc lộ trong tế bào gan trong suốt nhiều năm một cách khác nhau hơn là những năm sau của sự nhiễm trùng.

Trong giai đoạn dung nạp miễn dịch, tế bào gan ít bị hay không bị tổn thương, mặc dù vi rút ở mức cao. Hơn nữa, chức năng gan thì bình thường và kết quả là bệnh nhân không có triệu chứng. Giai đoạn này kéo dài trong nhiều năm thậm chí từ 20-30 năm. Xét nghiệm máu trong giai đoạn này là HBsAg dương tính, HBeAg dương tính, và HBV DNA dương tính. Điều quan trọng nên biết là giai đoạn này thường không thấy ở những người bị nhiễm HBV lúc trưởng thành cũng như những người ở Bắc Mỹ hay Tây Âu.

Giai đoạn miễn dịch đào thải là gì ?

Giai đoạn miễn dịch đào thải bắt đầu suốt thập niên thứ 3 đến thập niên thứ 4 ở người đã bị nhiễm HBV lúc nhỏ. Hệ miễn dịch ở những bệnh nhân này không kéo dài sự thờ ơ với vi rút nữa. Ngược lại, một người bị nhiễm HBV lúc lớn, thường bắt đầu giai đọan miễn dịch đào thải ngay. Trong giai đoạn này, hệ miễn dịch tấn công và làm tổn thương những tế bào gan bị nhiễm HBV. Giai đoạn này gọi là miễn dịch đào thải bởi vì hệ miễn dịch đang chống lại để làm sạch hay ức chế vi rút. Nghịch lý là quá trình này lại làm cho tế bào gan bị tổn thương, chức năng gan bất thường ( tăng ) đặc biệt là men gan ALT và AST. Ngoài ra, sinh thiết gan cho thấy gan bị tổn thương ( tình trạng viêm ) và sự hình thành mô sẹo ( mô xơ). Sự phá hủy nặng nề và trong suốt giai đoạn này xác định bệnh nhân sẽ bị bệnh gan thậm chí xơ gan ( sẹo hoá nhiều mô gan ) hay không. Sự phá hủy mô gan nặng nề và thời gian giai đoạn này càng kéo dài thì hầu như là bệnh nhân sẽ bị xơ gan .

Giai đoạn yên lặng là gì ?

Tiếp theo sau giai đoạn miễn dịch đào thải, sự nhiễm vi rút bước sang giai đoạn ổn định ( yên lặng, không hoạt động ). Mức HBV trong máu rất thấp, xét nghiệm chức năng gan gần như bình thường hay bình thường, và ít hay không có tổn thương tế bào gan qua sinh thiết, diễn tiến đến xơ hoá hay xơ gan có thể sớm hơn. Trong giai đoạn này, hầu như bệnh nhân luôn tồn tại HBsAg dương tính, dấu hiệu đã từng bị nhiễm HBV. Tuy nhiên, vào lúc này dấu hiệu sinh sản của HBV ( HBeAg và HBV DNA ) gần như âm tính và anti- HBe dương tính ( chứng tỏ vi rút đang ở trong tình trạng không hoạt động và ít nguy cơ lây nhiễm hơn).

Còn những đợt cấp hay diễn tiến của hbv trong giai đoạn yên lặng ?

Thỉnh thoảng, trong giai đoạn yên lặng vi rút có thể hoạt động trở lại. Sự tái hoạt động này gọi là đợt cấp, thường có triệu chứng với bất thường chức năng gan và tổn thương tế bào gan. Đợt cấp là do sự rối loạn mà trong đó là sự thay đổi cân bằng giữa hệ miễn dịch và vi rút. Nó có thể rất nặng và hậu quả là sẹo hóa mô gan nhiều hơn nữa. Người Châu Á trên 40 tuổi có nguy cơ bị những đợt cấp nếu có bệnh HBV. Thực tế, ở nhiều người, bệnh này sẽ diễn tiến đến xơ gan, xơ gan mất bù, kèm theo những biến chứng và bao gồm cả ung thư gan.

Tuy nhiên, diễn tiến đến xơ gan rất thầm lặng ở hầu hết bệnh nhân. Điều này có nghĩa là bệnh diễn tiến với rất ít hay không có triệu chứng để nhận thấy mức độ trầm trọng của bệnh. Một khi xơ gan xảy ra thì nguy cơ có những biến chứng như tăng áp lực tĩnh mạch cửa (đã nói ở phần trên ) khoảng 20-25% trong 5 năm. Hơn nữa, nguy cơ bị ung thư gan nguyên phát tăng gấp 200-300 lần so với người khỏe mạnh không bị nhiễm HBV.

Người lành mang mầm bệnh là gì ?

Những người bị nhiễm HBV có giai đoạn miễn dịch đào thải ngắn và nhẹ trước khi bước sang giai đoạn ổn định, có khuynh hướng rất tốt. Có nghĩa là họ sẽ có xét nghiệm chức năng gan bình thường và không có triệu chứng. Được gọi là người lành mang mầm bệnh. Tuy nhiên, họ vẫn có thể lây nhiễm cho người khác. Nguy cơ xơ gan và ung thư gan ở những người này rất ít mặc dù có cao hơn một ít khi so sánh với người không bị viêm gan B mạn. Hiếm khi người lành mang mầm bệnh tự nhiên trở thành HBsAg âm tính ( dấu hiệu chưa từng bị nhiễm HBV ). Mặc dù vậy, điều này chỉ xảy ra ở những người bị nhiễm HBV lúc trưởng thành.

Những loại thuốc nào được dùng để điều trị viêm gan B ?
Liệu pháp kháng vi rút không được khuyến cáo trong giai đoạn viêm gan B cấp bởi vì tình trạng nhiễm trùng tự thoái lui ở hấu hết bệnh nhân có triệu chứng. Tuy nhiện, suy gan cấp đã nói ở trên chiếm dưới 0,5% trường hợp viêm gan B cấp ở người lớn đòi hỏi lưu ý đánh giá về việc ghép gan.

FDA đã đưa ra hai loại thuốc là interferon và lamivudin để điều trị viêm gan B mạn. Việc sử dụng thuốc kháng vi rút điều trị cho những bệnh nhân có vi rút đang hoạt động sinh sản ( HBeAg dương tính và HBV DNA dương tính ), thay đổi chức năng gan ( tăng men gan ALT và AST) và không có dấu hiệu bệnh lí gan ( chỉ những biến chứng của xơ gan ). Mục đích trực tiếp của liệu pháp kháng vi rút là làm giảm sự sinh sản (Ức chế HBeAg và HBV DNA trong máu ) và cải thiện chức năng gan ( ALT và AST về bình thường ). Mục tiêu cơ bản là dự phòng tổn thương và sẹo hóa mô gan nhiều hơn nữa, làm ngừng tiến trình đến xơ gan và bằng cách đó dự phòng các biến chứng của xơ gan bao gồm cả ung thư gan.

Interferon trong điều trị viêm gan B mạn ?

Interferon – alpha 2b ( intron A) lần đầu tiên cho thấy hiệu quả trong điều trị viêm gan B mạn vào năm 1988. Ngay sau đó, FDA cấp phép interferon trong điều trị viêm gan B mạn. Interferon –alpha 2b là một protein nhỏ tự nhiên trong cơ thể được tạo ra bởi bạch cầu để chống lại sự nhiễm vi rút. Ngoài ra nó có hiệu quả kháng vi rút trực tiếp bằng cách hỗ trợ hệ miễn dịch cơ thể làm sạch vi rút.



Người ta tạo ra nhiều loại interferon, bao gồm beta interferon, gamma interferon , và ít nhất hơn 20 loại alpha interferon khác nhau. Tuy nhiên, chỉ có interferon-alpha 2b và interferon – alpha 2a là được FDA chấp nhận cho sử dụng trong lâm sàng ở Mỹ. Hoạt động kháng vi rút của hai loại interferon là tương tự nhau mặc dù chỉ interferon –alpha 2b là được cấp phép sử dụng điều trị viêm gan B mạn. Lưu ý rằng ribavirin, một loại thuốc dùng kết hợp với interferon trong điều trị viêm gan C thì không có hiệu quả trong điều trị nhiễm HBV.

Để điều trị viêm gan B mạn, một đợt điều trị interferon từ 4-6 tháng. Interferon được tiêm dưới da mỗi ngày với liều 5 triệu đơn vị hay 3 lần một tuần với liều 10 triệu đơn vị. Kết quả điều trị là làm giảm sự sinh sản HBV 30-40% ở bệnh nhân được điều trị. Điều trị thành công khi biến mất HbeAg, HBV DNA và xuất hiện kháng thể anti- Hbe. Vì vậy, chuyển từ giai đoạn vi rút đang hoạt động sang giai đoạn không hoạt động. Xét nghiệm chức năng gan trở về bình thường sớm nhất và không có tổn thương hay sẹo hóa mô gan dưới lâm sàng (được thấy qua sinh thiết gan ). Hơn 50% bệnh nhân không phải là người Châu Á đã được điều trị thành công không có HBsAg trong máu. Tuy nhiên, một lượng nhỏ HBV còn tồn tại trong gan của họ. Điều này cho thấy sự hạn chế HBsAg hầu như không bao giờ xảy ra ở Châu Á, ngay cả những người đã điều trị thành công. Tuy nhiên, sự tái hoạt động của vi rút chỉ chiếm khoảng 5% trường hợp bệnh nhân được điều trị thành công.

Có nhiều tác dụng phụ khi điều trị bằng interferon. Thực vậy ngay cả khi phóng thích interferon nội sinh cũng gây triệu chứng giống như cúm. Không có gì phải ngạc nhiên vì điều đó, việc tiêm interferon thường gây ra những triệu chứng giống như cúm từ trung bình đến nặng, bao gồm: mệt mỏi, đau cơ, sốt, ớn lạnh, và chán ăn. Những triệu chứng giống cúm này là tác dụng phụ thường gặp nhất khi điều trị bằng interferon chiếm 80% trường hợp bệnh nhân. Tác dụng phụ khác bao gồm lo âu ( 20%), suy hay cường giáp (6%), giảm chức năng xương ống ( 40%, giảm hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu ) và rụng tóc (25%). Khoảng 1/5 bệnh nhân điều trị interferon cần phải ngưng điều trị hay giảm liều do những tác dụng phụ này.

Điều không may mắn là phần lớn bệnh nhân viêm gan B mạn không đáp ứng với trị liệu bằng interferon. Tuy nhiên, dữ liệu của một trị liệu lý tưởng từ những điểm lợi của việc dùng interferon đã được biết. Như một bệnh nhân có mức HBv cao trong máu, men gan tăng ( AST )
_________________

Không có nhận xét nào: